Tọa đàm được tổ chức với mục tiêu đánh giá hiện trạng của các khu công nghiệp hiện nay trong mối tương quan nhu cầu đầu tư trong nước, nước ngoài và nhận diện xu hướng mới trong bối cảnh hiện nay. Đồng thời từ đó đưa ra nhóm giải pháp để khu công nghiệp mới và đang hoạt động có sự phát triển hợp lý, đáp ứng nhu cầu thực tiễn, nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội địa phương và quốc gia.

Trong buổi thảo luận, các chuyên gia, đại diện các doanh nghiệp đều nhất trí cho rằng dịch Covid-19 khiến chúng ta phải nhìn lại “bức tranh” phát triển các khu công nghiệp hiện nay. Trong đó, cần phải nghiên cứu và điều chỉnh hợp lý các loại hình quy hoạch khu công nghiệp.
Thực trạng phát triển các khu công nghiệp hiện nay
Tính đến hết tháng 5/2021, cả nước có 286 khu công nghiệp đang hoạt động, tổng diện tích đất tự nhiên là 86.000 ha, diện tích đất công nghiệp 57.300 ha; 108 khu công nghiệp đang trong quá trình xây dựng cơ bản, tổng diện tích đất tự nhiện đạt 35.900 ha, diện tích đất công nghiệp là 23.600 ha.
Tổng vốn đầu tư đăng ký của các nhà đầu tư kết cấu hạ tầng khu công nghiệp đến cuối tháng 3/2021 đạt 5,8 tỷ USD và 366.600 tỷ đồng, vốn đầu tư đã thực hiện của các dự án hạ tầng là 2,25 tỷ USD và 152.700 tỷ đồng.
Trong 5 tháng đầu năm 2021, các khu công nghiệp, khu kinh tế đã thu hút được 291 dự án đầu tư nước ngoài với số vốn đăng ký mới và tăng thêm đạt khoảng 6,02 tỷ USD, tăng khoảng 10,3% so với cùng kỳ năm ngoái; 271 dự án đầu tư trong nước với số vốn đăng ký mới và tăng thêm đạt khoảng 53,2 nghìn tỷ đồng.

Từ năm 2018, Nghị định 82/2018/NĐ-CP ngày 22/5/2018 của Chính phủ Quy định về quản lý khu công nghiệp và khu kinh tế ban hành đã nêu rõ đến nay Việt Nam có ba loại hình khu công nghiệp cơ bản đó là: khu công nghiệp hỗ trợ, khu công nghiệp đô thị dịch vụ và khu công nghiệp sinh thái. Về cơ bản, các khu công nghiệp Việt Nam chủ yếu vẫn phát triển theo hướng đa ngành, thiên về tạo ra quỹ đất để kêu gọi các doanh nghiệp thuê sản xuất kinh doanh.
Trước thực trạng trên, ông Vũ Anh Tú – Vụ phó Vụ Quy hoạch kiến trúc – Bộ Xây dựng cho biết trong quá trình phối hợp rà soát, điều chỉnh Nghị định 82, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã cân nhắc vấn đề này, làm rõ hơn một số loại hình khu công nghiệp. Trong đó, dự thảo quy định mới thay thế Nghị định 82 đã đề cập đến một số mô hình khu công nghiệp mới xuất hiện như các khu công nghiệp chuyên sâu, chuyên ngành,… Liên quan đến các xu hướng mới của các khu công nghiệp, ông cho rằng đó chính là những nhu cầu của doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, có một vấn đề thực tế ở Việt Nam, đa phần các khu công nghiệp hiện nay đều vận hành theo mô hình truyền thống. Tại các khu công nghiệp truyền thống, thông thường chỉ có nhà máy đơn thuần, không có nhà ở. Trong khi xu hướng phát triển của khu công nghiệp ở nhiều nước khác là hỗn hợp, thậm chí kết hợp khu đô thị, nhà ở, phòng khám, nhà trường để có thể phục vụ sinh hoạt cho cán bộ, công nhân viên.
Ở Việt Nam cho đến hiện tại, chỉ có một số ít chủ đầu tư đã thử nghiệm và thành công với mô hình khu công nghiệp đô thị dịch vụ. Bà Vũ Thu Hằng – Giám đốc kinh doanh, TNI Holdings Việt Nam nhận định:
“Phát triển khu công nghiệp đô thị dịch vụ quan trọng nhất vẫn là sự gắn kết và tương tác hỗ trợ như thế nào. Cụ thể ở đây, phần đô thị dịch vụ phải có ảnh hưởng, hỗ trợ, tương tác được cho các doanh nghiệp đang hoạt động trong khu công nghiệp hay không? Những chuyên gia, công nhân, người sử dụng dịch vụ trong khu công nghiệp, họ có được hưởng lợi từ những đô thị dịch vụ gắn liền với khu công nghiệp hay không, đó mới chính là phần mà chúng ta cần quan tâm để giải quyết.”
Một vấn đề nữa cần được xem xét đối với các chủ đầu tư hạ tầng hiện nay đó là vấn đề giải phóng mặt bằng. Việc giải phóng mặt bằng ì ạch dẫn đến tình trạng kéo dài tiến trình giải phóng mặt bằng, làm đánh mất nhiều cơ hội phát triển.
“Việc kéo dài tiến trình giải phóng mặt bằng và các thủ tục pháp lý để đảm bảo quỹ đất sạch cho nhà đầu tư là những thách thức và tạo áp lực rất lớn. Điều này trước hết ảnh hưởng đến toàn bộ quá trình hoạch định kinh doanh của chúng tôi. Thứ hai là giảm những niên hạn còn lại cho nhà đầu tư dẫn đến giảm giá trị của khu công nghiệp. Ba là khiến chúng tôi đánh mất đi rất nhiều thời cơ, dù có nhiều đơn hàng, nhà đầu tư đến nhưng chính vì không thể đảm bảo đúng tiến độ về giải phóng mặt bằng, quỹ đất sạch mà đã đánh mất nhiều cơ hội.” – Bà Hằng cho biết.
Giải pháp nào cho sự phát triển các khu công nghiệp hiện nay?
Với mục tiêu là đồng hành, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các khu công nghiệp nói riêng và phát triển kinh tế – xã hội trong thời gian tới nói chung, các diễn giả, đại diện doanh nghiệp cùng chia sẻ kiến thức, thông tin, theo sát các diễn biến của thị trường, tìm kiếm các giải pháp để kết nối và tận dụng tối đa các cơ hội.
Điều chỉnh, hoàn thiện phương diện pháp lý
Tiếp tục rà soát hoàn thiện bổ sung chính sách, văn bản pháp luật đảm bảo đồng bộ quy hoạch phát triển khu công nghiệp gắn với phát triển khu đô thị trong một phương án tổng thể, thống nhất giữa các quy hoạch quốc gia gắn với phát triển kinh tế địa phương; Rà soát, hoàn thiện bổ sung quy định pháp luật về đầu tư xây dựng khu công nghiệp phù hợp với từng loại hình sản xuất và từng thời kỳ; Xây dựng hoàn thiện tiêu chí, tiêu chuẩn về quy mô, cấu trúc sử dụng đất hạ tầng kỹ thuật trong khu công nghiệp.
Theo quan điểm của ông Phạm Hồng Điệp – Chủ tịch Hội đồng Quản trị kiêm Tổng giám đốc Công ty cổ phần Shinec – cho rằng, về phương diện pháp lý cần phải tích hợp các luật để thu hút được đầu tư vào khu công nghiệp. Theo ông, muốn thu hút được các nhà đầu tư xây dựng khu công nghiệp thì tất cả các Luật phải tích hợp được với nhau.
Riêng đối với Nghị định 82, ông Điệp nhận định việc nghị định quy định các tỉnh/thành phố phải lấp đầy khu công nghiệp trên 60% mới được tiếp tục xin dự án khu công nghiệp mới là chưa thật sự phù hợp. Bởi mỗi doanh nghiệp đầu tư hạ tầng có một cách làm, thu hút khác nhau. Quy định vậy thì sẽ ảnh hưởng toàn bộ đến sự phát triển hạ tầng, ảnh hưởng đến thành phố và địa lý. Do vậy, cần phải có sự điều chỉnh hợp lý với tình hình thực tiễn.
Mô hình khu công nghiệp chuyên ngành, đa chức năng để “đón gió” đầu tư mới
Về mô hình chức năng của các khu công nghiệp hiện tại, Phó Vụ trưởng Vụ Quy hoạch Kiến Trúc có nói: “Các khu công nghiệp hiện nay vẫn chỉ là đơn chức năng, tập trung phần lớn chức năng vào sản xuất, một phần nhỏ ở theo hình thức nhà ở cho công nhân. Mô hình này mới chỉ là ở và làm việc, chứ không phải sống và làm việc.”
Theo ông, để đáp ứng được các nhu cầu và sự thay đổi mới, Việt Nam cần cân nhắc đến mô hình khu công nghiệp đa chức năng. Tức là, việc hình thành lối sống công nghiệp mới bao gồm sống, làm việc, nghỉ ngơi một cách đồng bộ và chất lượng.
Quy hoạch là nguồn lực, quyết định đến sự thành công của khu công nghiệp
Quy hoạch là khâu dẫn dắt đầu tiên cho sự phát triển của khu công nghiệp. Không quy hoạch độc lập từng thực thể mà phải hướng đến quy hoạch cả khu, ít nhất là cả thành phố để có sự tương tác, hỗ trợ lẫn nhau. Khâu quy hoạch là vô cùng quan trọng. Bởi quy hoạch tốt thì thu hút được nhà đầu tư tốt. Quy hoạch là nguồn lực của nguồn lực, quyết định sự thành công của khu công nghiệp.
Nhận định thêm về vấn đề này, ông Bùi Ngọc Hải – Phó trưởng ban Ban quản lý Khu kinh tế TP.Hải Phòng cho rằng, cùng với quy hoạch thì phải có chính sách đi kèm. Và hơn nữa, để quy hoạch thành công cần phải có doanh nghiệp “nòng cốt”, có sức lan tỏa dẫn dắt, kéo theo các doanh nghiệp “vệ tinh” khác.
“Ví dụ, Hải Phòng có bài học lớn từ thu hút LG vào Khu công nghiệp Tràng Duệ. Bước đầu chúng tôi thu hút LG đầu tư 1,5 tỷ USD vào 2013, đến nay tiếp tục thu hút các doanh nghiệp khác của tập đoàn này như LG Display… với số vốn 4,6 tỷ USD. Đến nay tổng số vốn đầu tư vào khu công nghiệp này đã lên đến khoảng 8,2 tỷ USD và đã hình thành lên một khu công nghiệp chuyên ngành điện tử, mặc dù định hướng quy hoạch là khu công nghiệp tổng hợp.” – ông cho biết thêm.
Xem thêm: Quy hoạch khu công nghiệp ở Việt Nam sẽ có xu hướng như thế nào?
Trong thời gian tới, các chuyên gia, doanh nghiệp đều nhận định quy hoạch phát triển khu công nghiệp không thể thay đổi “một sớm một chiều”. Điều này đòi hỏi cả một quá trình nghiên cứu, tìm hiểu, phân tích để đưa ra những đánh giá khách quan và tiến hành điều chỉnh phù hợp với bối cảnh thực tế của đất nước. Tuy nhiên, trong tương lai không xa, nhận diện xu hướng mới sẽ giúp Việt Nam nắm bắt cơ hội, tận dụng thời cơ một cách tốt nhất.